Tư vấn trường hợp uống rượu, lái xe bị tai nạn: Liệu có phải đền bù?

Rate this post

Tư vấn trường hợp uống rượu, lái xe bị tai nạn: Liệu có phải đền bù? Khi xảy ra tai nạn nồng độ cồn của bạn đã được cơ quan điều tra xác định là dưới 50 miligam và tuân thủ đúng luật lệ giao thông. Có nghĩa là, theo quy định nêu trên, bạn không vi phạm quy định về giao thông. Trong khi đó, người gây tai nạn giao thông cho bạn lại có hành vi vi phạm an toàn giao thông gây thiệt hại cho bạn. Do vậy, họ sẽ phải chịu trách nhiệm cho hành vi của mình. Cụ thể: Tại Điều 590, bộ Luật Dân sự 2015 và Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn có quy định như sau:

Tư vấn trường hợp uống rượu, lái xe bị tai nạn: Liệu có phải đền bù?

Tư vấn trường hợp uống rượu, lái xe bị tai nạn: Liệu có phải đền bù?

Câu hỏi từ bạn đọc có nội dung: Tôi có uống rượu, nhưng không say (có thể làm chủ được hành vi) đang trên đường về nhà, tuân thủ đúng luật lệ giao thông thì bị một thanh niên say rượu đi trái đường đâm vào, phải đi cấp cứu và xác định thương tích 20%. Khi điều tra vụ việc, cảnh sát phát hiện trong người tôi cũng có nồng độ cồn dưới 50 miligam. Xin hỏi Luật sư tôi có bị xử phạt không và có được thanh niên niên kia đền bù không? Chân thành cảm ơn Luật sư! Uống rượu, lái xe bị tai nạn: Liệu có được đền bù? (Nam Thành – Bạc Liêu)

Trả lời:

Khoản 8, Điều 8, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 có quy định các hành vi bị nghiêm cấm như sau:

“….8. Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn. Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở…”.

Mặt khác, Theo quy định tại Khoản 3, Thông tư liên tịch 26/2014/TTLT-BYT-BCA, khi người điều khiển phương tiện giao thông gây tai nạn, thì cán bộ công an sẽ thực hiện việc kiểm tra nồng độ cồn có trong máu của những người có liên quan đến vụ tai nạn giao thông.

Khi xảy ra tai nạn nồng độ cồn của bạn đã được cơ quan điều tra xác định là dưới 50 miligam và tuân thủ đúng luật lệ giao thông. Có nghĩa là, theo quy định nêu trên, bạn không vi phạm quy định về giao thông. Trong khi đó, người gây tai nạn giao thông cho bạn lại có hành vi vi phạm an toàn giao thông gây thiệt hại cho bạn. Do vậy, họ sẽ phải chịu trách nhiệm cho hành vi của mình. Cụ thể: Tại Điều 590, bộ Luật Dân sự 2015 và Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn có quy định như sau:

1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

  • Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
  • Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
  • Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc, thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
  • Thiệt hại khác do luật quy định.

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được, thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.

Như vậy, về nguyên tắc, việc bồi thường thiệt hại giữa bên thiệt hại và bên gây thiệt hại có thể thỏa thuận mức bồi thường và phương thức bồi thường. Tuy nhiên, trong trường hợp không thỏa thuận được, thì việc bồi thường sẽ thực hiện theo quy định nêu trên.

Câu hỏi được tư vấn bởi Luật sư Đặng Thành Chung
Công ty Luật An Ninh (Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội)

Bình luận của bạn

Có thể bạn quan tâm

Loading...